Sự thiếu hụt Adenine phosphoribosyltransferase

Khi APRTase giảm hoặc không hoạt động, adenine tích lũy từ các con đường chuyển hóa. Nó bị phân hủy bởi xanthine dehydrogenase thành 2,8-dihydroxyadenine (DHA). Mặc dù DHA liên kết với protein trong huyết tương, nhưng nó có độ hòa tan kém trong nước tiểu và dần dần kết tủa ở tiểu thể thận, hình thành nên sỏi thận (sỏi tiết niệu). Nếu không được điều trị có thể dẫn đến suy thận.[6]

Thiếu ARPTase được chẩn đoán lần đầu tiên ở Anh vào năm 1976. Kể từ đó, hai loại thiếu hụt APRTase đã được xác định ở người.[12]

Thiếu ARPTase type I dẫn đến mất hoàn toàn hoạt động của APRTase và có thể xảy ra ở những bệnh nhân chứa kiểu gen dị hợp hoặc đồng hợp do đột biến.[13] Xác định trình tự tiết lộ nhiều đột biến khác nhau có thể giải thích cho sự thiếu ARPTase type I, bao gồm đột biến mất nghĩa, đột biến vô nghĩa, một bộ 4 cặp bazơ trùng lặp trong exon 3,[14]chèn một thymine duy nhất vào intron 4.[15] Những đột biến này gây ra các hiệu ứng được tập hợp thành ba khu vực chính: trong liên kết β-phosphate của PRPP, trong liên kết 5'-phosphate của PRPP và trong phân đoạn của vòng lặp linh hoạt gần vị trí hoạt động trong quá trình xúc tác.[8] Thiếu ARPTase type I đã được quan sát thấy ở các nhóm dân tộc khác nhau nhưng chủ yếu được nghiên cứu trong các nhóm người da trắng.[15]

Thiếu ARPTase type II làm cho APRTase giảm ái lực với PRPP, dẫn đến giá trị KM tăng gấp 10 lần.[4] Nó đã được quan sát và nghiên cứu chủ yếu ở Nhật Bản.[15]

Chẩn đoán thiếu APRTase có thể được thực hiện bằng cách phân tích sỏi thận, đo nồng độ DHA trong nước tiểu hoặc phân tích hoạt động của APRTase trong hồng cầu. Nó điều trị bằng liều thường xuyên của allopurinol hoặc febuxostat, ức chế hoạt động xanthine dehydrogenase để ngăn ngừa sự tích tụ và kết tủa của DHA.[16] Tình trạng cũng có thể được giảm bớt với chế độ ăn ít purine và uống nhiều nước.[12]